Ông đã từng chuyển từ
cấu trúc 4 chương truyền thống sang cấu trúc 3 chương trong Giao hưởng số năm
(1919) của mình, và sau cùng là chuyển về một chương trong Giao hưởng số 7
(1924). Trong chín bản giao hưởng của mình, nhà soạn nhạc Anh Ralph Vaughan Williams
đã tiếp tục truyền thống của Dvorak trong việc đi theo phong cách dân tộc đặc
trưng, rút ra từ âm nhạc dân gian, đặc biệt là trong Giao hưởng số ba – được
gọi là “Đồng quê” (1921) và Giao hưởng số 5 (1943).
Những nhà soạn nhạc khác,
đi theo các ý tưởng của chủ nghĩa tân cổ điển, đã tránh sự biểu hiện cảm nhận/
của chủ nghĩa lãng mạn và sửa đổi hình thức giao hưởng để đưa vào đó những xu
hướng hòa âm, nhịp điệu và bề ngoài của thế kỷ 20. Nhà soạn nhạc Nga Sergey
Prokofiev đã viết Giao hưởng bậc nhất của ông (1916-1917), được gọi là Giao
hưởng “Cổ điển” theo phong cách của Haydn. Những ví dụ khác của chủ nghĩa tân
cổ điển được tìm thấy trong những giao hưởng của nhà soạn nhạc gốc Nga Igor
Stravinsky và những nhà soạn nhạc Mỹ như Aaron Copland, Roy Harris, Walter
Piston và Roger Sessions. Nhà soạn nhạc Áo Anton von Webern, với kỹ thuật của
hệ 12 âm, đã sáng tác 1 bản giao hưởng sơ lược, có khả năng được trình diễn
trong 11 phút. Giống như “Kammersymphonie” (“Giao hưởng Thính phòng”, 1906) của
người đồng hương Arnold Schoenberg, nó diễn tả xu hướng cô đọng của thế kỷ 20
cũng như tính tiết kiệm trong hình thức và sản phẩm. Các giao hưởng của nhà
soạn nhạc Nga Sergey Rachmaninov là lãng mạn và cổ điển về hình thức. Những tác
phẩm có giá trị đặc biệt thuộc về 1 nhà soạn nhạc Nga khác là Dmitri
Shostakovich, các giao hưởng của ông thường đồ sộ về quy mô và cặp khi mang
tính chất chương trình.
Họ đã nối tiếp truyền thống của Mahler khi đem đến cho
giao hưởng sử biểu hiện nội tâm đầy xáo động của chính bản thân nhà soạn nhạc.
Trong quá trình sau Thế Chiến II, nhiều nhà soạn nhạc tiếp tục coi giao hưởng
như một phương tiện cho những tuyên ngôn cần thiết nhất của họ. Bốn giao hưởng
của nhà soạn nhạc Anh Sir Michael Tippett phản ánh từng thời kỳ khác nhau trong
sự update phong cách của ông, trong khi đó, Giao hưởng Turangalila (1948) của
Olivier Messiaen (Pháp) là một tổ khúc lớn 10 chương xoay quanh 1 vài chủ đề
trung tâm. Những người Mỹ viết giao hưởng vào cuối thế kỷ 20 và đầu 21 bao gồm
Philip Glass, John Coregliano và Eileen Taaffe Zwillich. Ở châu Âu có Sir Peter
Maxwell Davies (Anh); Arvo Pärt (Estonia); Einojuhani Rautavaara (Phần Lan);
Hans Werner Henze (Đức); cùng các nhà soạn nhạc ba Lan Henryk Górecki, Witold
Lutosławski, và Andrzej Panufnik.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét