Những
phần mở đầu chậm thường đi trước trong các chương 1, các chương sonata thường
tránh sự tương phản chủ đề; các chương kết, hình thức sonata hay rondo, có sức
sống và sức nặng chưa hề thấy trong các sáng tác của những nhà soạn nhạc trước
đó. Haydn thường sử dụng phép đối âm, gắn kết nó vào trong phong cách giao
hưởng. Những đặc trưng được đề nghị này thậm chí vẫn có mặt cả trong số giao
hưởng khác thường như Giao hưởng “Tiễn biệt” (1772) – trong đó các nhạc công
dần dần dời khỏi sân khấu cho đến những phút cuối cùng của tác phẩm. Mặc dù
Haydn thường được gọi là cha đẻ của giao hưởng, nhưng thể sản phẩm này thực ra
đã có sự khởi đầu ở Ý và Đức.
Haydn đã phát triển thể sản phẩm này dưới dạng
bốn chương, đem lại cho nó cái được gọi là hình thức cổ điển, đưa nó đến 1 đỉnh
cao mới của âm nhạc. Haydn và người bạn thiên tài của ông – Wolfgang Amadeus
Mozart đã tạo ảnh hưởng lẫn nhau trong kỹ thuật giao hưởng. Mozart, một trong
các bậc thầy giao hưởng vĩ đại nhất của mọi thời đại, đã sáng tác 41 bản giao
hưởng với tính chất sáng tạo kỳ diệu. trong những giao hưởng có tiếng tăm nhất
của ông có Giao hưởng Linz (1783), Prague (1786), Haffner (1782); và 3 bản giao
hưởng cuối cùng: Mi giáng trưởng, Son thứ và Jupiter (1788), đưa thể dòng giao
hưởng vĩnh viễn trở thành một thể mẫu lớn với tính chất biểu hiện sâu sắc.
BEETHOVEN Trong chín bản giao hưởng của mình, Ludwig van Beethoven đã đưa ra
khái niệm về các mối quan hệ chủ đề giữa các chương. Trước thời Beethoven, các
chủ đề trong mỗi chương là độc lập với nhau. Beethoven đã mở rộng 1 cách lớn
lao và sâu sắc những khả năng biểu hiện của thể seri giao hưởng và đem đến cho
nó khả năng khắc họa những cảm nhận/ phong phú và mãnh liệt. Khả năng biểu hiện
lớn này đã có mặt ở mức độ đáng kể trong hai bản giao hưởng lần đầu của ông, và
nó đã trở nên đặc biệt được đề xuất trong
Giao hưởng số 3 giọng Mi giáng trưởng
(1805), thường được biết đến với cái tên “Eroica” (“Anh hùng” – đã từng được dự
định đề tặng Napoleon). Tuyệt tác này có một chương đầu cô đọng, tràn đầy sức
mạnh sáng tạo, một chương 2 sâu sắc dưới dạng một hành khúc tang lễ, một chương
3 scherzo sôi nổi, và một chương kết dưới dạng các biến tấu trên một chủ đề.
Nếu như trước đó, chương ba thường là một minuet, thì trong các giao hưởng của
Beethoven, chương ba trở thành 1 khúc scherzo sống động. Trong Giao hưởng số
năm giọng Đô thứ (1808) của mình, Beethoven đã đưa vào một motif nhịp điệu và
giai điệu 4-nốt, nó có vai trò thống nhất các phần tương phản của tác phẩm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét